Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for the ‘Chuyên đề’ Category

I. Hành Chánh:

-Họ tên BN: Vũ  Thị Thu H.

-Tuổi: 56 (1958)                      -Giới: Nữ

-Nghề nghiệp: công nhân

-Địa chỉ: TPHCM

-Ngày nhập viện: 2h 28/06/2014

-Ngày làm bệnh án: 01/07/2014

II. Lý do nhập viện: Đau bụng vùng thượng vị

III. Bệnh sử:

Tối 27/06/2014,  sau ăn khoảng 2h BN đột ngột đau bụng dữ dội, đau quặn từng cơn, không lan, không tư thế giảm đau, BN tự mua thuốc không rõ laoi5 uống nhưng không giảm đau, kèm ói ra dịch màu vàng => NV 115

Vào viện BN được điều trị bằng thuốc, không còn nôn ói, còn đau bụng âm ỉ, bắt đầu xuất hiện vàng da vàng mắt.

IV. Tiền căn:

Loét dạ dày.

V.Thăm khám lâm sàng:

*Tổng trạng:

-Sinh hiệu:

  •  Mạch 92 lần/phút
  • Huyết áp: 110/70 mmHg
  • Nhịp thở: 16 lần/phút
  • Nhiệt độ: 37*C
  • -Thể trạng: thừa cân

-Da niêm vàng nhẹ, kết mạc mắt vàng.

-Hạch ngoại vi không sờ chạm, amydan không sưng.

-Không phù.

*Lồng ngực: cân đồi, không sẹo mổ cũ, không co kéo cơ hô hấp phụ, không tuần hoàn bàng hệ

-Tim:

  •  Mỏm tim cách trung đòn trái, phía ngoài 1cm
  • T1, T2 nhỏ, nhịp đều.

-Phổi:

  •  Rung thanh đều 2 bên, rì rào phế nang êm dịu.
  • Gõ trong.

* Khám bụng:

– bụng cân đối, xẹp.

– không sẹo mổ cũ, không tuần hoàn bàng hệ, không sao mạch.

– Nhu động ruột: 3 lần/ phút

– Bụng mềm

– ấn đau ở thượng vị và điểm túi mật

– chiều cao gan 8cm

*Các cơ quan khác: chưa ghi nhận bất thường

VI. Tóm tắt bệnh án:

BN nữ, 56T

Lý do nhập viện: Đau bụng vùng thượng vị

Qua thăm khám lâm sàng có các triệu chứng sau:

– Triệu chứng cơ năng:

  • Đau âm ỉ vùng thượng vị

– Triệu chứng thực thể:

  • Vàng da, vàng mắt,
  • Ấn đau vùng thượng vị và điểm túi mật

VII. Đặt vấn đề:

  • BN nữ, lớn tuổi, 4F
  • Hội chứng vàng da, tắc mật.
  • Ấn đau vùng thượng vị và điểm túi m

VIII. Chẩn đoán sơ bộ: Sỏi túi mật

IX. Chẩn đoán phân biệt: Viêm loét dạ dày, viêm tụy

Read Full Post »

Nguồn: http://jscr.oxfordjournals.org/content/2014/6/rju067.full.pdf+html

U trung mô cùng với lạc nội mạc tử cung nhầm lẫn với nang ống Nuck

Ca này báo cáo trường hợp nhô lên ở vùng bẹn phải bị nghi ngờ là lạc nội mạc tử cung ở bệnh nhân nữ 35 tuổi. BN nói là có một cục u lên đường kính 6cm ở vùng bẹn phải. Mặc dù đã được điều trị liệu pháp horome trong vòng 8 tháng do chẩn đoán lạc nội mạc tử cung ngoài bộ phận sinh dục, triệu chứng của BN không thuyên giảm. BN được siêu âm và chụp MRI, nghi ngờ lâm sàng BN bị tắc ống Nuck cùng với lạc nội mạc tử cung, kết quả được xác nhận lại thông qua kết quả kiểm tra mô bệnh học.

GIỚI THIỆU

Lạc nội mạc tử cung ngoài bộ phận sinh dục ở vùng bẹn chiếm 0,8% trong các ca lạc nội mạc tử cung (LNMTC), đây là tình trạng thường gặp ở vùng chậu, thường bên ngoài nhìn giống như bị nang ống Nuck. Ở đây, chúng ta báo cáo một ca rất hiếm gặp của u trung mô nhô lên ở vùng bẹn. Ca này nhấn mạnh rằng khối u vùng bẹn ở phụ nữ đang độ tuổi sinh sản không phải luôn luôn là nang ống Nuck, và có khả năng là thoát vị bẹn hay u nang.

BÁO CÁO CA LÂM SÀNG

BN nữ 35 tuổi được đưa đến bệnh viện do bị một khối u ở bẹn bên phải gây đau, và BN không đang trong thời gian hành kinh. BN được chẩn đoán là lạc nội mạc tử cung vùng bẹn, BN đã được trị liệu với liều thấp thuốc kiểm soát sinh sản trong vòng 2 chu kỳ kinh, và 5 chu kỳ dùng genogest, nhưng khối nhô lên ở bẹn lại tăng kích thước lên 5cm kèm theo đau. Trong bệnh sử của BN, không có vấn đề phụ khoa và đặc biệt là không bị rong kinh hay đau khi giao hợp. Ở vùng bẹn phải, chỗ lồi lên dài 5cm là một khối u đồng nhất nằm dưới da, qua siêu âm đo được kích thước chính xác là 53 x 29 mm. (Hình 1). Kháng thể-125 ung thư trong huyết thanh là 95,4 U/ml (<35 U/ml) trước khi bắt đầu liệu pháp hormone, và xuống thấp dưới 40 U/ml khi BN đến bệnh viện mặc dù kích thước khối u không thay đổi. MRI cho thấy khối u dài 6cm với cường độ mạnh ở hình T1WI, cho thấy có dấu hiệu  chảy máu bên trong (Hình 2).

BN được chẩn đoán khối u ở bẹn phải là nang ống Nuck. Sau khi rạch da và lớp mỡ dưới da vùng bẹn, một khối u màu đen sẫm nhô lên từ vùng bẹn và chạy dọc theo dây chằng tròn. Sau khi phẫu thuật, khối u chứa dịch huyết thanh, liên kết với vùng phúc mạc mặc dù cấu trúc của đùi không có dính dáng tới khoang bụng. BN được kiểm tra và không thấy có thoát vị nào khác. BN không có vấn đề hậu phẫu, bệnh nhân được xuất viện sau 1 ngày.

Kết quả kiểm tra mô bệnh học cho thấy tế bào u trung mô ở thành của khối u trong tình trạng thoái hóa, viêm nhiễm, xuất huyết, hình thành sợi collagen tăng sản, và nhiễm hemosiderin không ác tính.

Kết quả mô miễn dịch học: Calretinin dương tính cho thấy gốc nang thể trong tế bào khối u, CD10 (+), ER (+), PgR (+) cho thấy gốc mạc tử cung của 1 vài tế bào stroma hình thành nên thành khối u. 10 tháng sau khi phẫu thuật, không có thoát vị hay khối u nữa.

BÀN LUẬN

Trong các ca báo cáo trước đây, định nghĩa mô học của khối u nội mạc, khái niệm của u trung biểu mô và tăng sản trung biểu mô không rõ ràng. Cho đến hiện nay, các bác sĩ điều trị chỉ biết được một ca u trung mô tương tự mà khối u nhô lên từ vùng bẹn được ghi nhận ở bệnh nhân nữ 82 tuổi. Tuy nhiên, các tế bào trung mô phân bố khác nhau giữa hai ca. Trong ca này, thành khối u được bao phủ bởi tế bào trung mô, trong khi chỉ có 1 vài tế bào trung mô ở thành khối u ở ca kia.

Makunike báo cáo một ca thoát vị vùng bẹn với lạc nội mạc tử cung ở bệnh nhân nữ 43 tuổi, BN này có các hình ảnh lâm sàng tương tự;  phụ nữ đang trong độ tuổi sinh sản, khối u nhô lên ở bên phải, khối u nhô lên từ vùng bẹn phải kèm theo lạc nội mạc tử cung, có kết quả kiểm tra mô phôi khác. Trong ca này, BN được chẩn đoán có mô nội mạc tử cung trong một khối u trung mô, trong khi ca kia là tuyến nội mạc tử cung ở bên trong các mô mỡ xơ hóa và tế bào biểu mô.

U nội mạc tử cung có chứa tuyến nội mạc tử cung, và mô đệm cho thấy triệu chứng đau kèm theo lúc hành kinh trong khoảng 50% các ca, và thường là đau ở bẹn phải.

Trong ca này, khối u không thuyên giảm sau khi dùng liệu pháp hormone và do đó bác sĩ chọn phương pháp phẫu thuật. Bác sĩ xác định chỉ có mô đệm nội mạc tử cung trong thành khối u trong mẫu bệnh phẩm, do đó không thể chẩn đoán là LNMTC.

Từ kết quả kiểm tra hình thể và hình ảnh học, khối u được xác định nằm ở vùng đầu dây chằng bẹn và chẩn đoán giống như thoát vị bẹn. Chẩn đoán chính xác rất khó khăn do khối u bị xơ hóa.

THAM KHẢO

1. Adachi Y. Site of origin in relation to symptoms and signs. Rinsho Fujinka
Sanka, 1992;46:20– 7 (in Japanese).
2. Dellaportas D, Polymeneas G, Dastamani C, Kairi-Vasilatou E,
Papaconstantinou I. Strangulated femoral hernia turned to be peritoneal
cyst. Case Rep Surg 2012; doi: 10.1155/2012/528780.
3. Makunike R, Muronda C, Saburi SD. Endometriosis presenting as an
obstructed femoral hernia: a case report. Cent Afr J Med 2001;47:184–6.
4. Singh KK, Lessells AM, Adam DJ, Jordan C, Miles WF, Macintyre IM,
et al. Presentation of endometriosis to general surgeons: a 10-year
experience. Br J Surg 1995;82:1349– 51.
5. Strasser EJ, Davis RM. Extraperitoneal inguinal endometriosis. Am Surg
1977;43:421–2.
6. Candiani GB, Vercellini P, Fedele L, Vendola N, Carinelli S, Scaglione V.
Inguinal endometriosis: pat

Read Full Post »

Ung thư tụy chủ yếu xảy ra ở những bệnh nhân trên 60 tuổi. Nếu bệnh được chẩn đoán ở giai đoạn sớm, phẫu thuật cắt bỏ ung thư sẽ giúp cho chữa trị. Nhìn chung, ung thư càng phức tạp (ung thư càng tân sinh và lan rộng), càng có ít cơ hội điều trị hiệu quả. Tuy nhiên, điều trị có thể thường làm chậm quá trình của ung thư.

Tụy là gì?

Tụy nằm trong vùng bụng trên rốn và nằm sau dạ dày và ruột. Hình dạng của tụy giống như con nòng nọc, và nó có một đầu, một thân và một đuôi. Phần đầu nằm gần nhất tá tràng (phần của ruột non ngay sau dạ dày).

Tụy tạo dịch chứa enzymes (chất hóa học) cần cho tiêu hóa thức ăn. Enzyme đươc tạo trong các tế bào tụy và đi vào các ống nhỏ. Các ống này gộp lại như các nhánh của cây để tạo thành ống tụy chính. Ống này dẫn lưu dịch giàu enzyme vào tá tràng. Các enzyme này ở trạng thái bất hoạt trong tụy (tuy nhiên, chúng có thể tiêu hóa luôn tụy). Chúng được hoạt hóa trong tá tràng để tiêu hóa thức ăn.

Các nhóm của các tế bào đặc biệt gọi là các tiểu đảo Langerhans nằm rải rác khắp tuyến tụy. Các tế bào này tao hormone insulin và glucagon. Các hormone được tiết trực tiếp vào dòng máu để điều khiển mức đường máu.

Ống mật chở mật từ gan và túi mật. Ống mật sẽ gộp với ống tụy trước khi nó dẫn vào tá tràng. Mật cũng được dẫn lưu vào tá tràng và giúp tiêu hóa thức ăn.

 Ung thư là gì?

Ung thư là một bệnh lý của các tế bào trong cơ thể. Cơ thể được tạo từ hàng triệu các tế bào bé xíu. Trong cơ thể có nhiều loại tế bào khác nhau, và có nhiều loại ung thư khác nhau từ các loại tế bào khác nhay. Điểm chung của các loại ung thư là các tế bào ung thư bất thường và tăng sinh theo cấp số nhân ngoài tầm kiểm soát.

 Một khối u ác tính là một khối u hoặc mô tăng trưởng được tạo từ các tế bào ung thư tiếp tục nhân lên. Các khối u ác tính xâm lấn các mô lân cận, có thể gây ra thương tổn. Các khối u ác tính có thể cũng lan rộng đến các phần khác của cơ thể. Điều này xảy ra nến một vài tế bào vỡ ra khỏi khối u đầu tiên (sơ cấp) và được vận chuyển qua dòng máu hoặc mạch bạch huyết đếm các phần khác của cơ thể. Các nhóm tế bào nhỏ này có thể sau đó nhân lên để tạo thành các khối u thứ cấp (di căn) trong một hoặc nhiều vùng của cơ thể. Các khối u thứ cấp này có thể tiếp tục phát triển, xâm lấn và phá hủy các mô kế cận và mở rộng lần nữa.

 Một số ung thư có thể nghiêm trọng hơn, một số thì dễ điều trị hơn (đặc biệt nếu được chẩn đoán trong giai đoạn đầu), một số có tiên lượng tốt hơn. Vì thế, ung thư không chỉ là một trường hợp. Trong mỗi ca, điều quan trọng để biết chính xác loại ung thư nào đang phát triển, phát triển như thế nào và có mở rộng ra hay không. Điều này sẽ giúp cho BN lấy được những thông tin cần thiết trong lựa chọn điều trị và tiên lượng. Xem thêm các tờ rơi riêng biệt có tên là “Cancel – qhat are cancer and tumours?” để có thêm nhiều chi tiết về ung thư nói chung.

Ung thư tuyến tụy là gì?

Ung thư tuyến tụy tương đối phổ biến, khoảng 1/10.000 người mỗi năm ở Anh. Có một vài loại ung thư tuyến tụy, nhưng hơn 9/10 ca là ung thư tế bào tuyến ống động mạch.

Ung thư tế bào tuyến ống động mạch của tuyến tụy

Loại ung thư này phát triển từ một tế bào mà trở thành ung thư trong ống tụy. Các tế bào tăng sinh này và khối u này sau đó phát triển trong và xung quanh ống tụy. Khi khối u to ra:

–      Nó có thể làm tắt ống mật hoặc ống tụy chính, làm ngưng dòng dẫn lưu của mật và/hoặc dịch tụy vào trong tá tràng.

–      Nó xâm lấn sâu vào tuyến tụy. Trong lúc nó có thể đi qua thành tuyến tụy và xâm lấn các tạng kế cận như là tá tràng, dạ dày hoặc gan.

–      Một vài tế bào có thể vỡ ra vào mạch bạch huyết hoặc dòng máu. Ung thư có thể sẽ lan đến các hạch bạch huyết gần đó hoặc lan đến các vùng khác của cơ thể (di căn).

 Các loại khác của ung thư tụy

Một vài loại hiếm gặp của ung thư đi từ các loại khác của tế bào trong tuyến tụy. Ví dụ, các tế bào trong tuyến tụy mà tạo insulin hoặc glucagon có thể trở thành ung thư (insulinomas và glucagonomas). Cơ chế của chúng khác với ung thư tế bào tuyến ống động mạch. Ví dụ, chúng có thể sản xuất quá nhiều insulin hoặc glucagon, mà có thể gây ra các triệu chứng.

Phần còn lại của tờ rơi này chỉ bàn về ung thư tế bào tuyến ống động mạch của tuyến tụy.

Nguyên nhân gây ung thư tuyến tụy?

 Khối ung thư bắt đầu từ một tế bào bất thường. Lý do chính xác tại sao một tế bào trở thành ung thư thì chưa rõ. Điều này được nghĩ rằng có thể do các tổn thương bất kỳ hoặc rối loạn sắp xếp của gen trong tế bàp, dẫn đến tế bào bất thường và tăng sinh không kiểm soát. (Xem tờ rơi “What causes cancer?” để biết thêm chi tiết).

 Nhiều người mắc bệnh ung thư tuyến tụy không rõ nguyên nhân. Tuy nhiên, các yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng phát triển của ung thư tuyến tụy. Bao gồm:

–      Độ tuổi. Thường gặp ở những người lớn tuổi. Hầu hết ở những người trên 60 tuổi.

–      Hút thuốc.

–      Chế độ ăn uống. Ăn ở chế độ nhiều chất béo và thịt có thể làm tăng nguy cơ.

–      Béo phì.

–      Viêm tụy mạn (viêm kéo dài của tuyến tụy). Đa số các ca của viêm tụy mạn thường do uống nhiều cồn. Các nguyên nhân khác ít phổ biến hơn.

–      Tiểu đường. Ghi chú: tiểu đường là bệnh phổ biến và lượng lớn người mắc bệnh tiểu đường không phát triển ung thư tuyến tụy.

–      Hóa chất. Tiếp xúc nhiều tại chỗ làm việc với thuốc diệt sâu nhất định, thuốc nhuộm và các hóa chất được dùng trong luyện kim loại có thể làm tăng nguy cơ.

 Yếu tố di truyền và tính di truyền

Đa số các ca ung thư tuyến tụy không có tính chất di truyền. Tuy nhiên, một vài gia đình có nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến tụy cao hơn mức trung bình. Điều này được chỉ ra rằng khoảng 1 trong 10 bệnh nhân ung thư tụy do di truyền một gen bất thường. Hãy đến gặp bác sĩ nếu nghĩ rằng ung thư tuyến tụy phổ biến trong gia đình mình. Bệnh nhân sẽ được khám tổng quát với mục đích phát hiện hiện ung thư tuyến tụy ở giai đoạn đầu khi cơ hội được chữa khỏi đang cao. Một nhóm nghiên cứu tại đại học Liverpool, gọi là Hội khảo sát người dân châu Âu về ung thư tuyến tụy gia đình và viêm tụy di truyền (EUROPAC) đang nghiên cứu các nguyên nhân gây ra ung thư tuyến tụy. EUROPAC phối hợp nghiên cứu quốc gia về tầm soát ung thư tuyến tụy ở những người có nguy cơ cao. Xem chi tiết liên hệ ở phần cuối của tờ rơi.

Các triệu chứng của ung thư tuyến tụy là gì?

Các triệu chứng của tắc ống mật

Khoảng 7 trong 10 ca, khối u đầu tiên phát triển ở đầu tụy. Một khối u nhỏ ban đầu thường không gây ra triệu chứng. Khi khối u tăng sinh, nó hướng đến làm tắc nghẽn ống mật. Điều này làm ngưng dòng chảy của mật vào tá tràng, dẫn tới:

–      Vàng da (vàng sa do mật đi vào dòng máu do bị tắc ống mật).

–      Nước tiểu sậm màu – do máu vàng da được lọc qua thận.

–      Phân nhạt màu – khi phân không chứa mật gây ra màu nâu bình thường.

–      Ngứa toàn thân do mật trong dòng máu.

Đau thường không là một đặc trưng ban đầu. Do đó, vàng da không đau thường trở nên tệ hơn là dấu hiệu đầu tiên của ung thư tụy. Buồn nôn và nôn cũng là những triệu chứng khá phổ biến.

Các triệu chứng khác

Khi ung thư phát triển trong tụy, các triệu chứng sau có thể phát triển gồm:

–      Đau ở vùng bụng trên rốn, có thể lan ra phía sau lưng.

–      Bệnh nhân có thể cảm thấy không khỏe và sụt cân. Các triệu chứng này thường phát triển đầu tiên nếu ung thư phát triển trong thân hoặc đuôi tụy (khi ống mật không bị tắc).

–      Bệnh nhân có thể không tiêu hóa tốt, do lượng dịch tụy bị giảm. Do đó gây ra phân bạc màu, mùi hôi và sụt cân.

–      Trường hợp hiếm, đái tháo đường tăng khi gần như tất cả tuyến tụy bị phá hủy bởi khối u.

–      Trường hợp hiếm, khối u có thể gây ra viêm tụy – viêm tụy cấp. Điều này làm đau bụng trở nên nghiêm trọng.

Nếu ung thư lan đến các phần khác của cơ thể, các triệu chứng đa dạng khác có thể tăng.

Ung thư tuyến tụy được chẩn đoán và đánh giá như thế nào?

Đánh giá ban đầu

Có nhiều nguyên nhân gây vàng da và các triệu chứng khác được kiệt kê ở trên. Ví dụ, tắc mật do sỏi hoặc viêm gan. Do đó, một vài xét nghiệm ban đầu thường được chuẩn bị nếu bệnh nhân vàng da hoặc các triệu chứng khác tăng. Các xét nghiệm điển hình là siêu âm bụng và vài xét nghiệm máu. Các xét nghiệm ban đầu là một ý kiến hay khi nguyên nhân của vàn da là tắc từ đầu tụy.

Đánh giá mức độ và độ lây lan

Nếu bệnh nhân được xác định là mắc phải ung thư tụy, hoặc được nghi ngờ cao do các xét nghiệm ban đầu, sau đó các xét nghiệm sau được làm để đánh giá độ lan rộng của nó. Chẳng hạn:

–      CT scan là phương pháp kiểm tra phổ biến để đánh giá ung thư tụy. Nó là một phương pháp X-quang đặc biệt có thể cho thế hình ảnh khá rõ của các phần bên trong cơ thể.

–      MRI thỉnh thoảng được dùng. MRI viết tắt là chụp cộng hưởng từ. MRI sử dụng vùng từ trường mạnh và song âm để tạo các bức ảnh của mô, tạng và các cấu trúc khác trong cơ thể.

–      Nội soi siêu âm (EUS). Nội soi (soi dạ dày) là một ống kính mỏng, dễ di động. Nó đi qua miệng, vào thực quản và dạ dày và vào trong tá tràng. Nội soi gồm các sợi cáp quang cho ánh sáng rọi xuống nên bác sĩ hoặc y tá có thể nhìn được bên trong. Môt vài nội soi được trang bị một máy quét siêu âm nhỏ ở đầu ống mà có thể ghi nhận các hình ảnh của các cấu trúc đằng sau ruột, như tụy.

–      Chụp X-quang ngực.

–      Phẫu thuật nội soi. Đây là một thủ thuật nhìn vào bên trong bụng của bệnh nhân bằng ống nội soi. Ống nội soi như một kính thiên văn mỏng với một nguồn sáng. Nó được dùng để soi sáng và phóng đại các cấu trúc bên trong bụng. Ống nội soi đi vào bụng qua một vết rạch nhỏ trên da.

Cuộc đánh giá này được gọi là phân giai đoạn ung thư. Mục đích của phân giai đoạn là để tìm ra:

–      Bao nhiêu khối u trong tụy đang phát triển và nếu nó đang phát triển từng phần hoặc toàn bộ qua thành tụy.

–      Nếu ung thư đang lan rộng đến các hạch bạch huyết.

–      Nếu ung thư có thể lan rộng đến các vùng khác của cơ thể (di căn).

Bằng cách tìm ra các giai đoạn của ung thư, nó giúp bác sĩ cho lời khuyên chữa trị tốt nhất. Nó cũng cho một dự đoán hợp lý về tiên lượng.

Sinh thiết

Sinh thiết khi một mẫu nhỏ mô được tách khỏi một phần của cơ thể. Mẫu này sau đó được kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm các tế bào bất thường. Nếu sinh thiết được cho là cách duy nhất cần dùng thì có một cách khác để lấy mẫu từ tụy là lấy mẫu sinh thiết khi bệnh nhân đang nội soi. Nó sẽ được làm bởi một dụng cụ mỏng, xâm lấn, đi xuống một bên kênh của ống nội soi (soi dạ dày). Ngoài ra, thỉnh thoảng sinh thiết được làm cùng lúc với chụp cắt lớp. Kết quả mẫu sẽ được gửi trong hai tuần.

Tham khảo

Pancreatic Cancer UK

2nd Floor, Camelford House, 89 Albert Embankment, London, SE1 7TW
Tel 0203 535 7099 Web: www.pancreaticcancer.org.uk
Provides information and support to pancreatic cancer patients.

EUROPAC (The European Registry of Hereditary Pancreatitis and Familial Pancreatic Cancer)

Web: www.europac-org.eu
The co-ordinating centre for secondary screening for pancreatic cancer in the UK.

Macmillan Cancer Support

Tel (Helpline): 0808 808 0000 Web: www.macmillan.org.uk
Provides information and support to anyone affected by cancer.

CancerHelp UK

Web: http://cancerhelp.cancerresearchuk.org/ provides facts about cancer, including treatment choices.

Other support groups

See www.patient.co.uk/selfhelp.asp for a list of self help and support groups for cancer.

Read Full Post »

Older Posts »